1. Thực trạng:
*Thuận lợi:
- Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp của các ban ngành đoàn thể các cấp.
- Tập thể sư phạm nhà trường có ý thức và tinh thần trách nhiệm cao đối với công tác giáo dục đạo đức học sinh; rất nhiều thầy cô giáo luôn luôn trăn trở, tìm mọi biện pháp để giáo dục học sinh chậm tiến về đạo đức tiến bộ vươn lên.
- Ban đại diện cha mẹ học sinh rất nhiệt tình và thường xuyên phối hợp, chăm lo đến các hoạt động của nhà trường, nhất là công tác giáo dục đạo đức học sinh.
- Nhiều học sinh được giáo dục tốt ở gia đình, rất nhiều em có ý thức, tư cách đạo đức tốt làm hạt nhân tốt ở các tập thể học sinh các lớp.
- Phần lớn các em học sinh đều ngoan, có ý thức trong học tập và rèn luyện, vâng lời ông bà, cha mẹ và thầy cô; có tinh thần giúp đỡ bạn, có lòng nhân ái; xây dựng được quan hệ tình bạn trong sáng lành mạnh.
* Khó khăn:
- Đối với học sinh Tiểu học, các kiến thức về hiểu biết xã hội, gia đình, về pháp luật còn rất hạn chế. Do đó các em chưa có ý thức về trách nhiệm với hành vi của mình, nên dễ dẫn đến vi phạm nội quy, qui định của nhà trường, của Đội, thậm chí vi phạm pháp luật.
- Do thực tế môi trường xã hội nên ít nhiều các em cũng chịu tác động của các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội trong nền kinh tế thị trường. Sự bùng nổ của CNTT, ngoài tác dụng tốt cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực. Các em dễ dàng học những điều chưa hay trên phim ảnh, trên mạng internet.
- Một số phụ huynh học sinh chưa thực sự quan tâm đến giáo dục con em, còn nuông chiều, tin tưởng thái quá vào con em mình hoặc có tư tưởng phó mặc cho nhà trường; thậm chí có phụ huynh còn bất lực trước con cái.
- Một bộ phận nhỏ học sinh chưa có ý thức phấn đấu rèn luyện, vi phạm nội qui của trường, của Đội; có học sinh vi phạm một vài lần, có học sinh vi phạm có hệ thống.
2. Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân khách quan như tác động của internet, điện thoại thông minh, mạng xã hội, phim ảnh, âm nhạc,… nhưng cần thiết phải ‘tự soi lại chính mình’ bằng việc xem xét lại hai nguyên nhân cơ bản xuất phát từ gia đình và nhà trường.
a) Gia đình thiếu quan tâm
- Sự thiếu quan tâm của gia đình là nguyên nhân đầu tiên ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống đạo đức của các em.
- Gia đình giáo dục con em mình không đúng cách: Rất nhiều cha mẹ thường xuyên mắng chửi con và không bao giờ có những lời nói êm dịu, lắng nghe khi nói chuyện với con. Một số bố mẹ luôn to tiếng quát nạt con mình để bày tỏ sự không hài lòng với con về một điều gì đó. Làm như thế cứ tưởng rằng con mình sẽ sợ và sẽ ngoan hơn nhưng đâu biết rằng theo nghiên cứu của Quỹ Tâm lý học Ca-na-đa (2012), việc phụ huynh mắng chửi, lên lớp, hay biểu hiện tức giận đối với con cái trong độ tuổi vị thành niên không có tác dụng tích cực mà chỉ làm cho con cái mình phản ứng lại một cách tiêu cực.
b) Giáo dục đạo đức ở nhà trường chưa thực sự đạt hiệu quả, chưa đạt được mục đích là giáo dục hướng thiện đối với con người: Hầu như nhà trường chỉ tập trung cho việc dạy chữ mà ít dành thời lượng cho việc dạy đạo đức, dạy làm người cho các con. Mặt khác, nói đến vai trò của nhà trường trong việc dạy HS làm người, trước tiên phải đề cập đến vai trò của người thầy. Học sinh luôn lấy người thầy làm mẫu. Thế nhưng hình ảnh mẫu mực của người thầy trong xã hội chúng ta trong thời gian qua đang bị xem nhẹ.
Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cho HS:
1. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua giữa các tập thể và cá nhân nhằm tạo sự chuyễn biến sâu rộng cả về nhận thức và hành động, góp phần hạn chế và đẩy lùi các hiện tượng vi phạm đạo đức ở học sinh. Ban chỉ huy Liên đội và Chi đội phải làm tốt công tác xếp loại và đánh giá thi đua các lớp hành tuần, hàng tháng. Công tác thi đua phải chính xác, công tâm, kích thích được phong trào. Vừa đánh giá, vừa thể nghiệm và dần hoàn chỉnh các tiêu chí thi đua.
2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về tác hại của các vi phạm đạo đức, các tệ nạn; phổ biến tuyên truyền pháp luật (luật giáo dục, luật giao thông đường bộ, ...); tổ chức học tập, quán triệt cho học sinh về nội quy của nhà trường, của Đội vào đầu năm học, vào giờ chào cờ đầu tuần và giờ sinh hoạt lớp.
3. Tăng cường công tác tự quản của các tập thể lớp, chi đội thông qua vai trò cố vấn của giáo viên chủ nhiệm. Thông qua tập thể và giáo dục bằng tập thể, giáo dục bằng dư luận, giáo dục cảm hoá bằng tình bạn sẽ có tác dụng tích cực giúp học sinh điều chỉnh hành vi của mình.
4. Tăng cường các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: Văn nghệ, TDTT, ngoại khoá, các chương trình từ thiện… Thông qua các hoạt động này sẽ giúp cho học sinh có nhều sân chơi bổ ích, tránh xa điện thoại, game,…đồng thời rèn luyện sức khỏe, tình yêu thương con người, sự sẻ chia, tương thân tương ái…
5. Đề cao vai trò trách nhiệm của GVCN, bởi GVCN là người thay mặt nhà trường chịu trách nhiệm về toàn bộ các mặt hoạt động của lớp; chỉ có GVCN là cầu nối tin cậy nhất với nhà trường và phụ huynh. Vì vậy GVCN vừa đề cao trách nhiệm, vừa có tình thương, bao dung, độ lượng và nghiêm minh, công bằng; vừa có tính chủ động sáng tạo để giáo dục học sinh nhất là đối tượng HS chậm tiến. GVCN phải có kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh; hàng tuần, hàng tháng phải có nhận xét, đánh giá, xếp loại cụ thể về từng mặt cho từng học sinh, chỉ cho mỗi HS thấy được từng mặt mạnh mặt yếu và có khen chê kịp thời; không nên có định kiến hẹp hòi với học sinh; nếu định kiến hẹp hòi sẽ làm cho các em mất niềm tin, bi quan, chán nản. Bên cạnh đó giữa GVCN và phụ huynh phải có mối quan hệ mật thiết, thường xuyên thông tin về tình hình học tập rèn luyện của các em để bàn biện pháp phối hợp giáo dục. Mỗi giáo viên phải thực sự là người mẹ, người cha và là người bạn biết lắng nghe và chia sẻ. Qua kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân và một số đồng nghiệp, tôi nhận thấy nếu giáo viên chỉ biết dùng kỷ luật và chỉ trích những học trò thuộc dạng khó dạy thì khó mà chuyển hóa được học trò. Giáo viên phải ân cần lắng nghe, hiểu, chia sẻ và thỉnh thoảng tìm những điểm tích cực để khen học trò nhằm khuyến khích các em phát huy những điểm tích cực.
6. Cần tăng cường công tác phối hợp giữa nhà trường- gia đình- xã hội.
Muốn làm tốt, có hiệu quả phải có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất về phương pháp tác động; thường xuyên cập nhật thông tin nhiều chiều để biết về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh. Nhà trường quan tâm đến việc xây dựng mối quan hệ này thông qua những việc làm thiết thực như tập huấn cho phụ huynh phương pháp giáo dục HS, tổ chức những buổi hội thảo để qua đó phụ huynh được chia sẻ kinh nghiệm giáo dục con, tổ chức những buổi gặp gỡ giữa phụ huynh và các chuyên gia tâm lý để được tư vấn, …, thì kết quả là không những thành tích học tập của HS tốt hơn mà một số hành vi phi đạo đức như nói dối, ích kỷ, vô kỷ luật giảm rõ rệt.
7. Giáo dục cần giảm tải và cân bằng chương trình học:
Chú trọng hơn các môn khoa học xã hội có tác dụng xây dựng nhân cách HS; thay đổi cách dạy và học đạo đức dưới hình thức lý thuyết khô khan và hô hào khẩu hiệu bằng việc học từ cuộc sống thực tiễn. Chúng tôi đã từng đọc và biết HS phổ thông của một trường ở Anh quốc đến các siêu thị trong vùng để phụ giúp nhân viên thu ngân ở các quầy bỏ hàng vào túi cho khách hàng và để đáp lại sự giúp đỡ đó, khách hàng có thể bỏ một ít tiền vào thùng từ thiện đặt bên cạnh. Các em sử dụng tiền quyên góp được để mang về trường làm từ thiện. Rõ ràng các em đã được học một bài học rất thực tế về ý thức cộng đồng và cách thể hiện lòng nhân ái bằng chính khả năng của mình, thay vì về nhà xin tiền cha mẹ để đóng góp từ thiện như đa số HS ở nước ta hiện nay đã và đang làm.
8. Cần nghiên cứu để áp dụng những giá trị đạo đức Phật giáo vào trong việc giáo dục đạo đức HS:
Đây có thể là một chủ đề mà một số người xem là rất nhạy cảm đối với các trường công lập, nhưng giáo dục phải mạnh dạn nhìn đúng sự thật. Các nước trên thế giới đã và đang nghiên cứu Phật giáo dưới góc nhìn khoa học và triết học, để từ đó áp dụng một cách có hiệu quả vào việc phát triển nhân cách HS. Ngay cả ở các nước phương Tây, Phật giáo không phải là tôn giáo truyền thống nhưng người phương Tây sẵn sàng tiếp thu để giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong cuộc sống, trong đó có giáo dục. Ngay tại Việt Nam, trong những năm gần đây có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức Phật giáo và đạo đức xã hội. Nhìn chung, các tác giả đều có cùng nhận định Phật giáo đã góp phần xây dựng tình thương yêu, đoàn kết; hướng dẫn con người sống tốt, đem lại lợi ích cho bản thân và cộng đồng, dấn thân với cộng đồng; phát huy tinh thần tương thân, tương ái và hướng con người sống hiếu nghĩa.